Ví dụ được lấy từ 《Kim Ngôn》 của Trịnh Hiểu thời Minh. Quẻ này, theo lời kể của bạn bè, cũng được Thuận Bỉnh Hòa tiên sinh đưa vào 《Chu Dịch Cổ Trắc Khảo》, nhưng rất tiếc chưa từng thấy bản ghi chép.

 

《Kim Ngôn》: Trương Dần, một người mù trẻ tuổi ở An Ấp, Sơn Tây, học Dịch và bói toán, chuyên dùng Kinh Phòng để luận đoán, mỗi lần đều kỳ lạ mà chính xác. Thời Chính Thống, theo cha đến Đại Đồng. Khi vua Ngọc Lăng (Minh Anh Tông) bị bắt tại Bắc, Đại Đồng giữ vững, thái giám họ Phí yêu cầu Trương xem quẻ. Quẻ ra Càn biến Phục. Trương kín đáo tấu rằng: “Đại cát. Hào sơ và hào tứ ứng nhau. Hào sơ tiềm phục, hào tứ nhảy vọt. Sang năm vào năm Ngọ, vào năm Canh Ngọ là thời điểm nhảy vọt. Canh nghĩa là đổi mới. Rồng một năm nhảy một lần, mùa thu tiềm phục, mùa thu nhảy lên, đúng một năm. Mùa thu năm sau, giá xe vua sẽ quay về. Quẻ nói ‘Vật dụng’ nhưng không ứng nghiệm, vì điều này có nghĩa là còn nghi ngờ. Nhưng trở lại nghĩa là trở về. Hình tượng ‘Ẩn nhiên như rồng’, số là chín. Hào bốn gần hào năm, nhảy gần bay.

 

Rồng ở Sửu, Sửu gọi là ‘Xích Phấn Nhược’, quay về ở Ngọ, Ngọ có màu đỏ. Ngọ nhảy lên từ Sửu, như thế là thuận. Thuận theo thiên mệnh. Ở hướng Đinh, tượng là ánh sáng lớn. Vị trí ở phương Nam, là phương hỏa. Dần là lúc sinh ra, Ngọ là lúc vượng, Nhâm là hợp lại. Đây là thời điểm phục vị. Phải đến sau chín năm, tức năm Đinh Sửu, tháng Dần, ngày Ngọ, hợp với Nhâm”. Ngọc Lăng ghi nhớ điều đó trong lòng.

 

Thời gian: Năm Kỷ Tỵ. Quẻ: Càn vi Thiên biến Địa Lôi Phục.

 

Trấn tinh nhập quẻ, Tham Tú [hỏa] nhập hào Thế Tuất thổ.

 

Hào đầu không động, là chủ quẻ, địa chi trị Tý, là tượng nữ, hư, nguy, phần mộ, nguy hiểm, khóc lóc. Đây là dấu hiệu cho thấy tình thế lúc đó bất lợi.

 

Quẻ này hào Ứng là Thìn, Thìn là đất của Giác và Khang, lâm Thanh Long, là chân Thanh Long. Đồng thời, bản quẻ Thân, Tý, Thìn hợp cục thủy, Long đắc thủy thì sống. Hào tư Chu Tước tại Ngọ, cũng là chân Chu Tước, cùng hào Thế và hào Ứng tạo thành cục thế “Long Phụng trình tường”. Trấn tinh nhập quẻ, hào Thế và hào Ứng đều là Thổ, lại được Trấn tinh cát thần trợ giúp. Hào Thế ở Tuất, Tuất Hợi là bản vị của Càn, tượng thiên tử. Vì vậy, quẻ này có thể đoán là “đại cát. Phu tư, sơ ứng dã”. Hào ba: “Quân tử chung nhật kiền kiền, tịch dịch nhược, lệ, vô cữu”. Vì thế ứng kỳ nên xa. Tình thế hiện nay, đều âm hào năm Thân kim mà khởi. Tham Tú là đại tướng của trời, ở hào Ứng Thìn nhập miếu, miếu là kho, là tượng binh khí quy vào kho. Đồng thời, hào năm Thân kim, trị Tỷ Tham, cũng theo hào Thế Tham Tú đại tướng, Bạch Hổ nhập kho mà vào kho.

 

Năm Kỷ Tỵ sang năm là Canh Ngọ, hợp với bản quẻ, nên nói “Hậu dược dã” (chờ đợi sự nhảy vọt), Long “hoặc dược tại uyên”. Canh lấy tượng mới, hợp với hào động. Ngọ là hỏa của Bính Đinh, ứng với đầu cổ Chu Tước, bầu diều, tượng ăn uống, hỏa khố tại Tuất, “năm tới mùa thu, xe nên quay lại”.

 

Đây là luận đoán việc gần, xem bản quẻ. Luận đoán việc xa thì xem cùng quẻ biến.

 

Ngọ hỏa là tượng trung tâm của một quẻ, vì Ngọ hỏa đắc thời thì có thể chế Thân kim. Xem sự biến hóa của Ngọ hỏa: Biến quẻ Lục hợp, Thế Ứng hợp, cát tượng. Sửu là tước lộc tân lương, Mão là đường xá, biến quẻ Chấn là xe, xe đi trên đại lộ, đến vị trí tước lộc, phục quẻ là phục vậy, bản quẻ hỏa vượng, là phục về vương vị, vì vậy đoán phục bích, “tuế Đinh Sửu”.